15/8/17

NHỮNG QUI ĐỊNH MỚI VỀ ĐIỀU KIỆN SẢN XUÂT VÀ XUẤT KHẨU
SẢN PHẨM CÁ TRA

Phòng NTTS – Chi cục Thủy sản

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017về quản lý nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá Tra, thay thế Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về nuôi chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá Tra. Theo đó: 
* Điều kiện nuôi cá Tra thương phẩm phải đáp ứng 4 điều kiện: (1) Có địa điểm, diện tích nuôi cá Tra phù hợp với quy hoạch về sử dụng đất của UBND cấp tỉnh; (2) Có cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về nuôi cá Tra thương phẩm; có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt; có nơi xử lý chất thải, bùn thải đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường và vệ sinh thú y; (3) Đáp ứng các quy định về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm; (4) Có Giấy chứng nhận mã số nhận diện ao nuôi cá Tra theo quy định.
- Về mã số nhận diện ao nuôi, mã số gồm 11 số và có cấu trúc AA-BB-CCCC-DDD, trong đó: AA là mã số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương áp dụng trong quản lý nuôi trồng thủy sản; BB là mã số đối tượng nuôi (đối với cá Tra là 01); CCCC là số thứ tự cơ sở nuôi được cấp từ 0001 đến 9999; DDD là số thứ tự ao nuôi của cơ sở nuôi cá Tra, được cấp theo thứ tự từ 001 đến 999. 
Cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh thực hiện cấp mã số nhận diện ao nuôi; Mỗi ao nuôi được cấp duy nhất một mã số nhận diện đồng thời qui định Chủ cơ sở nuôi phải thực hiện đăng ký mã số nhận diện ao nuôi lần đầu hoặc đăng ký lại khi thay đổi chủ cơ sở nuôi hoặc thay đổi diện tích ao nuôi, cụ thể như sau:
- Hồ sơ đăng ký: a) Hồ sơ đăng ký lần đầu gồm: Giấy đăng ký cấp mã số nhận diện ao nuôi (Mẫu số 01 Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này) và bản sao sơ đồ mặt bằng vị trí ao nuôi; b) Hồ sơ đăng ký lại gồm: Giấy đăng ký cấp lại mã số nhận diện ao nuôi (Mẫu số 02 Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này), bản gốc Giấy chứng nhận mã số nhận diện ao nuôi cá Tra thương phẩm đề nghị cấp lại và bản sao sơ đồ mặt bằng vị trí ao nuôi.
- Trình tự thực hiện: a) Chủ cơ sở nuôi nộp 01 bộ hồ sơ theo quy định tại khoản 4 Điều này về cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh; b) Trong thời gian không quá 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh hướng dẫn chủ cơ sở nuôi bổ sung những nội dung còn thiếu hoặc chưa đúng quy định; c) Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận mã số nhận diện ao nuôi cá Tra thương phẩm (Phụ lục III ban hành kèm theo Nghị định này); lưu hồ sơ 01 bản và gửi 01 bản cho chủ cơ sở nuôi. Trường hợp không cấp mã số nhận diện ao nuôi, cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản cấp tỉnh trả lời chủ cơ sở nuôi bằng văn bản, nêu rõ lý do.

Lưu ý: Nghị định cũng đã qui định Điều khoản chuyển tiếp: Giấy chứng nhận mã số nhận diện ao nuôi cá Tra thương phẩm đã được cấp theo Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá Tra tiếp tục có hiệu lực.

* Điều kiện xuất khẩu sản phẩm cá Tra: Từ 01/7, xuất khẩu sản phẩm cá Tra không cần Hiệp hội xác nhận, đây là quy định mới nổi bật tại Nghị định 55/2017/NĐ-CP về quản lý nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá so với qui định trước đây (NĐ 36/2014/NĐ-CP). 
Nghị định cũng quy định rõ điều kiện chế biến cá Tra, cụ thể phải đáp ứng 4 điều kiện: (1) Đáp ứng các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh tại Điều 21 của Nghị định 66/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định điều kiện đầu tư kinh doanh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật; giống cây trồng; nuôi động vật rừng thông thường; chăn nuôi; thủy sản; thực phẩm; (2) Đáp ứng các quy định, quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong chế biến thủy sản; (3) Có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp; (4) Có hệ thống truy xuất nguồn gốc đáp ứng các quy định của pháp luật và đảm bảo khả năng truy xuất đến cơ sở nuôi.
Sản phẩm cá Tra xuất khẩu phải được chế biến từ cơ sở chế biến cá Tra đáp ứng các điều kiện chế biến cá Tra nêu trên. Trường hợp tổ chức, cá nhân xuất khẩu sản phẩm cá Tra không có cơ sở chế biến đáp ứng các điều kiện chế biến cá Tra, phải đáp ứng một trong hai điều kiện: (1) Có hợp đồng mua sản phẩm cá Tra được chế biến tại cơ sở chế biến cá Tra đáp ứng điều kiện chế biến cá Tra nêu trên; (2) có hợp đồng gia công, chế biến với chủ sở hữu cơ sở chế biến đáp ứng điều kiện chế biến cá Tra.
* Điều kiện chất lượng, an toàn thực phẩm đối với sản phẩm cá Tra: (1) Cá Tra nguyên liệu dùng để chế biến phải được nuôi từ cơ sở nuôi cá Tra thương phẩm đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 3 (Điều kiện nuôi cá Tra thương phẩm) Nghị định này; (2) Sản phẩm cá Tra phải đáp ứng các quy định, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng, an toàn thực phẩm; (3) Việc ghi nhãn sản phẩm cá Tra phải tuân thủ quy định của pháp luật về ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm đã qua chế biến.
Để tổ chức thực hiện Nghị định này, Chính phủ đã giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phài: (1) Quy định địa điểm, diện tích vùng sản xuất giống, vùng nuôi cá Tra thương phẩm phù hợp với Quy hoạch sử dụng đất tại địa phương; (2) Chỉ đạo các cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản địa phương tổ chức thực hiện cấp, cấp lại mã số nhận diện ao nuôi cá Tra thương phẩm; (3) Chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức nuôi, chế biến, xuất khẩu cá Tra tại địa phương theo quy định của pháp luật; (4) Chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và xử lý vi phạm theo quy định pháp luật đối với hoạt động nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá Tra tại địa phương theo thẩm quyền; (5) Báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tình hình nuôi, chế biến, xuất khẩu cá Tra tại địa phương theo định kỳ hàng tháng, quý, năm hoặc đột xuất.
Theo Tổng cục Thủy sản, tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra 6 tháng đầu năm nay đạt trên 519 triệu USD, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2016. Cả nước hiện có 3.100 ha diện tích nuôi cá tra, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng cá tra nguyên liệu đạt gần 520.000 tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ. Từ đầu năm đến nay tình hình sản xuất, chế biến và tiêu thụ cá tra có dấu hiệu tích cực, giá cá tra phục hồi, người nuôi và doanh nghiệp có lãi nhưng ngành cá tra hiện nay vẫn đang đứng trước nhiều thách thức và rào cản kinh tế khi cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2017 và việc triển khai tốt Nghị định 55/2017 quy định về quản lý nuôi, chế biến, xuất khẩu cá tra sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lý rất quan trọng để phát triển bền vững ngành hàng cá tra; đáp ứng được nguyện vọng của các doanh nghiệp, thiết lập tiêu chuẩn chung cho sản phẩm cá tra xuất khẩu./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét