NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
VÙNG NƯỚC NGỌT – LỢI BẤT CẬP HẠI
ThS. Phạm
Thị Thu Hồng - Chi cục Thủy sản
Mặc dù tất cả cơ quan chức năng và chính quyền
địa phương đến cấp xã trong tỉnh đều nắm
rõ qui định của Bộ NN&PTNT cấm nuôi thôm thẻ chân trắng nước ngọt nhưng hiện nay tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng (TCT) trái phép trên địa
bàn tỉnh chưa chấm dứt triệt để, nhất là 2 huyện Vũng Liêm, Tam Bình. Các cơ sở nuôi này đều
có khoan giếng sử dụng nước ngầm trái phép để tạo môi trường nước lợ nuôi tôm.
Hậu quả bước đầu là đã có dấu hiệu tác động không tích cực đến môi trường chung
quanh: độ mặn được đo tại các kênh, mương (vốn dĩ là nước ngọt hoàn toàn) lân
cận các cơ sở nuôi ở ấp Phú An, Phú Hữu Tây xã Phú Thịnh, Tam Bình đạt mức
0,5 0%.
Từ
lợi ích trước mắt: Trong
vài năm gần đây, tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) là một trong những đối tượng thủy sản xuất khẩu chủ lực của nước
ta và được nuôi phổ biến ở các vùng nước lợ ở các tỉnh ven biển vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Năm 2013, trong khi giá cá tra liên tục sụt giảm thì giá
TCT trong nước tăng cao bất thường đã mang lại thu nhập nhất thời đáng kể cho
người nuôi. Điều này đã kích thích người nuôi thủy sản trong vùng nước ngọt
chuyển đổi đối tượng sản xuất sang nuôi TCT do lợi nhuận hấp dẫn mà mô hình này
mang lại. Nguyên nhân của việc tăng giá thu mua tôm nguyên liệu cuối năm vừa
qua là do các nước xuất khẩu chủ lực là Trung Quốc và Thái Lan gặp vấn đề về
dịch bệnh dẫn đến sản lượng bị sụt giảm nghiêm trọng. Bắt đầu từ đây, tôm TCT đã
được thả nuôi tự phát ngoài quy hoạch ở các tỉnh nội đồng (vùng nước ngọt hoàn
toàn) như Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long… do đối tượng này tương đối dễ nuôi,
có độ rộng muối và rộng nhiệt cao, thời gian thu hoạch ngắn, lợi nhuận thu được
trước mắt từ mô hình này cao hơn nhiều so với các đối tượng thủy sản nước ngọt
khác. Trước nguy cơ nuôi tôm thẻ chân trắng (TCT) tự phát ở miền Nam như thời
gian qua, Bộ NN&PTNT
đã có văn bản số 1711/BNN-TTCS ngày 02/6/2014 về việc nghiêm cấm nuôi tôm nước
lợ trong vùng nước ngọt và yêu câu các địa phương cần thực hiện đúng Quy hoạch
phát triển nuôi tôm nước lợ đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt và quản lý quy hoạch (hoặc quy định của địa phương) đã được phê
duyệt.
Đến
nguy cơ tác động xấu môi trường: Thực tế sản xuất, để nuôi được tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt,
người nuôi phải sử dụng nước ngầm nhiễm mặn, bổ sung thêm muối hạt, khoáng đa
lượng hoặc sử dụng nước biển nhân tạo. Mô hình sản xuất này có thể thỏa
mãn nhu cầu hiện tại của một bộ phận cộng đồng nông dân nhưng với việc khoan
giếng ngầm để lấy nước mặn nuôi tôm và việc thải nước nhiễm mặn từ ao nuôi tôm
này ra các thủy vực nước ngọt sẽ để lại hệ lụy rất khó lường đối với lĩnh vực
nông nghiệp có thế mạnh khác (cây lúa, cây ăn quả..) trong tương lai khi đất và
nước bị nhiễm mặn. Nhiều nhà khoa học với nhiều công trình nghiên cứu đã cảnh
báo sự bất ổn của mô hình này không phù hợp với xu hướng nuôi trồng thủy sản
bền vững hiện nay do ảnh hưởng về lâu dài đối với môi trường sinh thái. Cụ thể
là việc này sẽ tác động rất lớn đến môi trường và đa dạng sinh học, đặc biệt là
ảnh hưởng đến sự sụt lún đất trong khu vực, gây mặn hóa vùng nuôi, ô nhiễm nước
ngầm. Nuôi TCT trong vùng nước ngọt
chắc chắn phải tạo môi trường nhân tạo để đáp ứng với đặc điểm sinh học của vật
nuôi, đặc biệt là yêu cầu về nồng độ muối thích nghi và khoáng chất cần thiết
để tôm có thể sinh trưởng tốt nhất. Việc khoan giếng lấy nước ngầm nhiễm mặn để
nuôi tôm về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến tầng nước ngầm, nếu khai thác quá mức sẽ
dẫn đến cạn kiệt nguồn nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt và có khả năng gây sụt
lún. Về lâu dài, ngoài việc
thẩm thấu của nước nhiễm mặn vào đất thì việc xả nước thải từ các ao nuôi TCT
ra các thủy vực nước ngọt sẽ gây nguy cơ nhiễm mặn cho vùng nước ngọt đặc biệt
là ảnh hưởng đến diện tích cây trồng khác và các vùng trồng lúa truyền thống dẫn
đến năng suất lúa bị sụt giảm. Cũng chính vì vậy nên những hành vi trên bị
nghiêm cấm và thuộc một trong những quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường tại Nghị định
179/2013/NĐ-CP với mức phạt từ 30 –
50 triệu đồng.
Cần tăng cường quản lý để giảm thiểu rủi ro
cho dân: Theo Tổng cục Thủy
sản, việc nuôi TCT tự phát như hiện nay sẽ có nguy cơ phá vỡ quy hoạch nuôi tôm
đã được phê duyệt, do đó khó kiểm soát tình hình sản xuất thực tế. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng cho nuôi tôm chưa phù hợp, chi phí đầu
tư cao, nguy cơ bùng phát dịch bệnh mọi thời điểm sẽ là rủi ro lớn cho người
nuôi. Mặt khác, các mầm bệnh mới từ TCT có thể lây lan cho đối tượng nuôi
truyền thống như tôm càng xanh và các loài thủy sản khác. Và hành vi địa điểm sở nuôi trồng thủy sản không theo
quy hoạch hoặc
chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép sẽ bị phạt tiền từ 20-30.triệu đồng và buộc tháo dỡ cơ sở nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch (theo điểm a khoản 4 điều 24 Nghị định số 103/2013/NĐ-CP ngày
12/9/2013 của Chính phủ
Quy định về xử phạt vi phạm hành chánh trong hoạt động thủy sản)
Qua kiểm tra, khảo sát, từ năm
2014, tất cả các vùng có nuôi tôm thẻ chân trắng trong nước ngọt trên toàn tỉnh
đều đang nằm trong diện tích quy hoạch để nuôi trồng các loại cá nước ngọt,
hoặc là vùng canh tác rau màu. Bên cạnh đó, diện tích này cũng hoàn toàn không
có cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng dùng chung lẫn hạ tầng trong từng ao nuôi. Đặc
biệt, không có ao chứa và ao xử lý nước thải; nguồn nước cung cấp cho ao nuôi
được lấy trực tiếp từ giếng khoan nước ngầm để pha với nước bên ngoài và nguồn
nước thải sau khi nuôi tôm lại xả trực tiếp ra môi trường xung quanh. Điều này
đương nhiên gây ô nhiễm nền đáy, chất đất của cả vùng nuôi và khu vực lân cận,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, làm thiệt hại các vùng canh tác lân cận
trong tương lai không xa bởi chỉ sau thời gian nuôi từ 3-5 năm, môi trường nước
sẽ bị mặn hoá trở lại và dịch bệnh trên con tôm lại phát triển như thường, thậm
chí phát sinh thêm nhiều bệnh mới không kiểm soát được, trong đó phổ biến nhất
là bệnh mềm vỏ. Bệnh này xuất phát từ môi trường mặn nhân tạo thiếu các vi chất
cần thiết, trong đó có chất canxi nên con tôm cũng thiếu chất này, dẫn đến ốm
yếu, hình dáng xấu, khi luộc lên vỏ tôm ít đỏ và thịt tôm không ngọt như vốn có,
mềm hơn nhiều so với tôm nuôi trong môi trường nước lợ và nước mặn dẫn đến năng
suất, sản lượng, chất lượng TCT thương phẩm nuôi ở nước ngọt kém hơn so với
nước lợ nên giá bán thấp hơn. Đặc biệt, các nhà máy chế biến đông lạnh xuất
khẩu thường không thu mua TCT nuôi vùng nước ngọt, đối tượng này chủ yếu tiêu
thụ nội địa nên khi nhu cầu xuống thấp, giá không ổn định dẫn đến nguy cơ thua
lỗ rất cao cho người nuôi.
Đa dạng hóa đối tượng nuôi để nâng cao giá trị
và hiệu quả sản xuất là mục tiêu cần hướng đến của ngành thủy sản trong giai
đoạn tái cơ cấu ngành hiện nay. Tuy nhiên, những ảnh hưởng về lâu dài khi thả
nuôi TCT trong vùng nước ngọt đã được các nhà khoa học khẳng định. Vì thế, để
có thể phát triển ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, người nuôi nên
lựa chọn những đối tượng thủy sản vừa mang lại lợi ích về kinh tế vừa giảm được
tác động của hoạt động nuôi đối với môi trường và xã hội bởi “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ
chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu
của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Trong khi Bộ
Nông nghiệp & PTNT chưa có thay đổi qui định về việc quản lý nuôi TCT thì
người dân không nên tiếp tục phát triển đối tượng này trong vùng nước ngọt và cần
có đầy đủ thông tin về thị trường để có kế hoạch lựa chọn đối tương sản xuất
phù hợp nhằm tránh những tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra khi cung vượt cầu như
đã từng xảy ra với đối tượng khác. Và chỉ khi nào chính quyền địa phương làm tốt hơn công tác phổ
biến giáo dục pháp luật và cùng với cơ quan chức năng quyết liệt hơn trong tăng
cường thanh kiểm tra thì hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực này mới được
nâng cao để góp phần giảm thiểu hệ lụy của phong trào nuôi TCT nước ngọt như đã
nêu trên./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét